Nó như một khái niệm kinh tế học, không có một cách định nghĩa chính xác Serverless là gì! Có thể hiểu theo 2 cách sau
Serverless được dùng để ám chỉ những ứng dụng sử dụng phần lớn (hoặc toàn bộ) dịch vụ “nhà hàng xóm” (third-party), được host trên cloud, cho các vấn đề ở phía server là logic và state (ví dụ trạng thái đăng nhập, một dạng của dịch vụ chăm sóc khách hàng thân thiết). Những ứng dụng để sử dụng (không phải những trang profile công ty, show hiệu ứng bay lượn portfolio, ví dụ như Facebook, ứng dụng đăng ký môn học, hoặc ứng dụng điện thoại bị chửi bới quá trời FaceApp, tức là mô hình này không chỉ áp dụng riêng cho web). Những dịch vụ thường được outsource cho nhà hàng xóm là gì: database có Parse, Firebase, authentication có Auth0, AWS Cognito. Mấy nhà này nằm trong khu “Backend as a Service” – BaaS, khi gắn vào hậu tố as a Service bạn có thể biết là nó nằm ở nhà hàng xóm.
Serverless cũng có nghĩa là ứng dụng đó logic server vẫn có, developer vẫn phải viết logic này, tuy nhiên, không giống kiến trúc truyền thống, nó chạy theo cơ chế “tiền trao-cháo múc” (event-trigger), không quan tâm anh bạn có ở chung nhà mình không (stateless compute container). Khái niệm này được @marak trên Twitter gọi là Function as a Service – FaaS, bạn có nhu cầu cắt tóc, gội đầu, uống cafe, đánh giày thì bạn ra tiệm hết, không dùng đồ nhà có sẵn nữa. Hiện tại, AWS Lambda là một trong những platform nổi tiếng nhất khi nói đến FaaS
Giờ nói tới FaaS, nó đang là trend, nó thay đổi cách chúng ta trước đây vẫn nghĩ về kiến trúc dưới server.
Một kiến trúc Serverless nó như thế này
Diễn giải đoạn dài ngoằn kia
(1) FaaS là chạy backend code mà không cần quan tâm việc quản lý và bảo trì hệ thống server.
(2) FaaS không yêu cầu một framework hay thư viện cụ thể nào. Các function trên Lambda có thể được viết bằng Javascript, Python, Go, Java, Clojure, Scala, .NET.
(3) Deploy sẽ rất khác với hệ thống truyền thống. Tới *nhà** của FaaS chúng ta đưa đoạn code cho chủ nhà, còn lại chủ nhà làm gì thì làm.
(4) Scale sẽ tự động được chủ nhà làm. Nếu hệ thống cần đáp ứng 1000 request đồng thời, chủ nhà sẽ lo, bạn chỉ cần bơm tiền. Quan trọng nhất, bên cung cấp dịch vụ sẽ quản lý hết toàn bộ resource, xin giấy phép, nói chung là toàn bộ – bạn không cần làm gì với cluster, VM cả.
(5) Cung cấp cơ chế trigger ứng với các event bạn muốn.
(6) Mấy bên cung cấp dịch vụ, cho phép các function này trigger theo những sự kiện HTTP request, như ví dụ là search, và purchase, hoặc gọi trực tiếp lên các API được cung cấp bởi bên cung cấp
Case Study
PhotoVogue trang Vogue của Ý, chạy từ năm 2011, sau một năm chạy, photographer bu vô như kiến, server ở nhà riêng quá tải không chịu nổi.
Giám đốc kỹ thuật quyết định chuyển đổi toàn bộ hệ thống server ở nhà riêng sang AWS trong 3 tháng.
Chạy theo trend này, còn có những cái tên rất phổ biến là Uber, Pokemon Go, Airbnb, Clash of Clans và rất nhiều ứng dụng khác khi số lượng user và real-time data lớn
Những vấn đề mà team PhotoVogue đã gặp
Serverless được dùng để ám chỉ những ứng dụng sử dụng phần lớn (hoặc toàn bộ) dịch vụ “nhà hàng xóm” (third-party), được host trên cloud, cho các vấn đề ở phía server là logic và state (ví dụ trạng thái đăng nhập, một dạng của dịch vụ chăm sóc khách hàng thân thiết). Những ứng dụng để sử dụng (không phải những trang profile công ty, show hiệu ứng bay lượn portfolio, ví dụ như Facebook, ứng dụng đăng ký môn học, hoặc ứng dụng điện thoại bị chửi bới quá trời FaceApp, tức là mô hình này không chỉ áp dụng riêng cho web). Những dịch vụ thường được outsource cho nhà hàng xóm là gì: database có Parse, Firebase, authentication có Auth0, AWS Cognito. Mấy nhà này nằm trong khu “Backend as a Service” – BaaS, khi gắn vào hậu tố as a Service bạn có thể biết là nó nằm ở nhà hàng xóm.
Serverless cũng có nghĩa là ứng dụng đó logic server vẫn có, developer vẫn phải viết logic này, tuy nhiên, không giống kiến trúc truyền thống, nó chạy theo cơ chế “tiền trao-cháo múc” (event-trigger), không quan tâm anh bạn có ở chung nhà mình không (stateless compute container). Khái niệm này được @marak trên Twitter gọi là Function as a Service – FaaS, bạn có nhu cầu cắt tóc, gội đầu, uống cafe, đánh giày thì bạn ra tiệm hết, không dùng đồ nhà có sẵn nữa. Hiện tại, AWS Lambda là một trong những platform nổi tiếng nhất khi nói đến FaaS
Giờ nói tới FaaS, nó đang là trend, nó thay đổi cách chúng ta trước đây vẫn nghĩ về kiến trúc dưới server.

Một kiến trúc Serverless nó như thế này

- Phần authen trước đây được gửi nhà hàng xóm làm (cơ quan nhà nước chuyên cung cấp CMND)
- Dữ liệu được đưa một về nhà kho quản lý, kiểu như Tiki bây giờ quá mệt quản lý kho hàng, các cửa hàng nhỏ lẻ tự quản lý kho, Tiki bán được thì chạy tới kho của bên thứ 3 lấy.
- Với 2 thay đổi ở trên, điều này có nghĩa là một vài logic đã được nằm ở phía client, thí dụ, user session, bạn sẽ thấy rõ nhất ở các Single Page App chúng ta build, phần logic giao diện cho user đã và chưa đăng nhập nằm ở client – nhà user, những route nào user có thể vào nằm ở code client
- Một vài hiển thị, ràng buộc tất nhiên vẫn được server nắm. Thí dụ “search”. Chúng ta có thêm một nhà gọi là “API Gateway”, dịch vụ giao nhận, tất cả các yêu cầu từ client đưa về đây, các anh em HTTP sẽ đi lấy dữ liệu từ kho về cho chúng ta.
- Với tính năng đặt hàng, nó do một nhà** khác cung cấp. Những logic khác nhau, được tách và deploy thành những cục* khác nhau như vậy cách tiếp cận của FaaS cũng là cách tiếp cận rất phổ biến trong “Microservices”
Diễn giải đoạn dài ngoằn kia
(1) FaaS là chạy backend code mà không cần quan tâm việc quản lý và bảo trì hệ thống server.
(2) FaaS không yêu cầu một framework hay thư viện cụ thể nào. Các function trên Lambda có thể được viết bằng Javascript, Python, Go, Java, Clojure, Scala, .NET.
(3) Deploy sẽ rất khác với hệ thống truyền thống. Tới *nhà** của FaaS chúng ta đưa đoạn code cho chủ nhà, còn lại chủ nhà làm gì thì làm.
(4) Scale sẽ tự động được chủ nhà làm. Nếu hệ thống cần đáp ứng 1000 request đồng thời, chủ nhà sẽ lo, bạn chỉ cần bơm tiền. Quan trọng nhất, bên cung cấp dịch vụ sẽ quản lý hết toàn bộ resource, xin giấy phép, nói chung là toàn bộ – bạn không cần làm gì với cluster, VM cả.
(5) Cung cấp cơ chế trigger ứng với các event bạn muốn.
(6) Mấy bên cung cấp dịch vụ, cho phép các function này trigger theo những sự kiện HTTP request, như ví dụ là search, và purchase, hoặc gọi trực tiếp lên các API được cung cấp bởi bên cung cấp
Case Study
PhotoVogue trang Vogue của Ý, chạy từ năm 2011, sau một năm chạy, photographer bu vô như kiến, server ở nhà riêng quá tải không chịu nổi.
Giám đốc kỹ thuật quyết định chuyển đổi toàn bộ hệ thống server ở nhà riêng sang AWS trong 3 tháng.
Chạy theo trend này, còn có những cái tên rất phổ biến là Uber, Pokemon Go, Airbnb, Clash of Clans và rất nhiều ứng dụng khác khi số lượng user và real-time data lớn
Những vấn đề mà team PhotoVogue đã gặp
- Có hơn 130,000 photographer trên khắp thế giới sử dụng hệ thống để đưa ảnh lên, ước tính có khoảng 400,000 ảnh, với dung lượng tối đa mỗi hình là 50MB (bọn này chơi sang nhỉ)
- Số lượng truy cập ngày càng tăng
- Trải nghiệm sử dụng của user không tốt, thao tác xử lý quá chậm, up ảnh quá rùa
- Khả năng scale, dễ maintenance, quản lý chi phí rõ ràng
- Lưu trữ hình trên Amazon S3
- Khi up lên Amazon S3, bật trigger sử dụng AWS Lambda function, convert các file này qua gif, jpeg, png, tiff
- Amazon API Gateway được sử dụng để làm tầng caching của REST API, Amazon CloudFront cho CDN
Bài viết liên quan
Bài viết mới